Nguyễn Hữu Chí – Tôi đi tìm Tự-Do 21-25

KỲ 21

Trong số những vũ khí tuyên truyền được cộng sản Hà Nội sử dụng để đầu độc người dân Miền Bắc, có một vũ khí vô cùng quan trọng và hiệu quả là tên tuổi của những nhân vật nổi tiếng ở Miền Nam cũng như thế giới, đi theo cộng sản hoặc có những tuyên bố hậu thuẫn cộng sản. Bên cạnh đó, những cuộc biểu tình, đình công, tại các quốc gia tây phương, thay vì chứng tỏ quyền tự do, dân chủ của người dân được bảo đảm, dưới sự nhào nặn tuyên truyền của chế độ cộng sản, đã trở thành những hình ảnh, tin tức quảng bá cho quan điểm, “xã hội tư bản là thối nát, bóc lột tàn nhẫn; còn xã hội cộng sản là lý tưởng, là con đường tất yếu của nhân loại”.

Khi cái gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” được cộng sản Hà Nội dựng lên, với những nhà trí thức tên tuổi nhưng đầy ảo tưởng về chủ nghĩa cộng sản như Trịnh Đình Thảo, Phạm Ngọc Thu, Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hữu Thọ… trong thời gian đầu, người dân Miền Bắc, nhất là thế hệ trẻ, đều tưởng rằng người dân ở Miền Nam đã bị đàn áp dã man, nên họ phải đứng lên thành lập MTGP. Chỉ trong thời gian ngắn, guồng máy tuyên truyền của Hà Nội đã thành công trong việc tung hứng, vẽ lên một bức tranh: Những người trí thức, khoa bảng Miền Nam đã dám vứt bỏ hạnh phúc gia đình, bổng lộc, tiền tài, danh vọng cá nhân, để đi theo con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Dĩ nhiên, khi guồng máy tuyên truyền của cộng sản Hà Nội đã vẽ lên hình ảnh người dân Miền Nam đã biết “hy sinh” như vậy, thì guồng máy chiến tranh của cộng sản Hà Nội cũng đã khôn ngoan đẩy người dân Miền Bắc vào những “hy sinh” tương tự cho cuộc chiến tranh “giải phóng Miền Nam”. Nếu những nhà trí thức khoa bảng, lớn lên ở Miền Nam tự do, chỉ vì những mâu thuẫn riêng tư, những hoạt động bè phái nhất thời, hay những bất mãn trước sự tự do dân chủ nhưng chưa hoàn hảo của chế độ VNCH, để rồi chấp nhận làm công cụ cho cộng sản, thì thử hỏi làm sao người dân Miền Bắc, lớn lên sau luỹ tre làng, bị cộng sản kìm kẹp, cả đời chỉ nghe một đài phát thanh, đọc một tờ báo,… có thể thoát khỏi sự tuyên truyền đầu độc của cộng sản?

Sau này, tôi được biết, khi nhận rõ bộ mặt thật của cộng sản, nhiều nhà trí thức khoa bảng đã bỏ cộng sản, người thì trốn ra ngoại quốc, người thì sống ẩn dật. Đặc biệt, bà Dương Quỳnh Hoa đã có thái độ can đảm rút tên ra khỏi đảng cộng sản. Cộng sản đồng ý cho bà rút tên, nhưng với điều kiện, bà chỉ được công khai chuyện rút tên của mình 10 năm sau đó. Với uy tín tại VN cũng như ngoại quốc, việc làm của bà Dương Quỳnh Hoa đã khiến cộng sản rất mất mặt. Tiếc là bà chấp nhận điều kiện “10 năm sau mới công khai chuyện rút tên khỏi cộng sản”, bằng không, việc rút tên khỏi đảng cộng sản của bà còn có ý nghĩa to lớn hơn, và giúp cho nhiều người Việt hơn sớm tỉnh mộng, thoát khỏi ảo tưởng về cộng sản.

Chính vì cộng sản Việt Nam đã biết dùng những cái ảo tưởng nhất thời của những nhà trí thức khoa bảng Miền Nam, dựng nên hào quang “chính nghĩa” cho cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam, cộng với hàng loạt thủ đoạn tuyên truyền, bưng bít, đàn áp, kìm kẹp “dạ dầy”, “nhỏ giọt” hạnh phúc,… cộng sản Hà Nội đã vắt kiệt xương máu người dân Miền Bắc để dựng nên bi kịch lớn nhất của dân tộc Việt Nam: Hy sinh xương máu của người Việt cho tham vọng bành trướng chủ nghĩa cộng sản.

Qua guồng máy tuyên truyền của cộng sản, người dân Miền Bắc, nhất là thế hệ trẻ, đã ngây thơ tin tưởng vào hào quang trí thức khoa bảng của những luật sư, bác sĩ, dược sĩ Miền Nam, khi những người này đi theo cộng sản. Thêm vào đó, những thành phần trí thức khoa bảng của Miền Bắc, trong đó có các nhà văn, nhà thơ, nhà báo… cũng đều đồng lõa với cộng sản trong việc lừa bịp người dân, đầu độc thế hệ trẻ qua những câu thơ: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”; “Anh đi xuôi ngược tung hoành. Bước dài như gió lay thành chuyển non. Mái chèo, một chiếc thuyền con. Mà sông nước dậy, sóng cồn đại dương”… Sống trong một xã hội bưng bít, tư tưởng của con người chỉ thuần túy được nhào nặng bằng những bài thơ, bài hát, bài báo hay những tác phẩm do chế độ cộng sản xuất bản như Ruồi Trâu, Thép Đã Tôi Thế Đấy, Hòn Đất… nên thế hệ trẻ Miền Bắc đã sống trong sự mông muội và cuồng tín. Và chính sự mông muội và cuồng tín của giới trẻ đã tạo nên những “thần tượng anh hùng”, những vần thơ “dũng sĩ diệt Mỹ”, để rồi những “thần tượng” những vần thơ “dũng sĩ” đó lại tiếp tục đầu độc những thanh thiếu niên khác. Vì thế, tôi có thể nói, con người sinh ra và lớn lên trong chế độ cộng sản, bao giờ cũng trải qua hai giai đoạn, một giai đoạn sống bằng ảo tưởng, và một giai đoạn sống trong sự ân hận và xấu hổ.

Cộng sản luôn luôn hiểu, thế hệ trẻ bao giờ cũng khao khát đi tìm những thần tượng anh hùng. Nặn lên những thần tượng anh hùng để đầu độc thế hệ trẻ, trong một xã hội độc tài chuyên chế là điều không có gì khó. Nhưng quan trọng hơn, dễ thuyết phục hơn, vẫn là tạo nên những hành động, con người “anh hùng thật” bằng xương bằng thịt, để đầu độc thế hệ trẻ. Vì vậy, nếu khi bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cộng sản đã ngụy tạo nên thần tượng “cậu bé Lê Văn Tám” trên dưới 10 tuổi dám tẩm xăng vào người, rồi chạy vào kho vũ khí của Pháp, làm cho nó nổ tung, thì trong cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam, cộng sản đã có sẵn những hình ảnh “anh hùng bằng xương bằng thịt” để tuyên truyền, trong đó có Nguyễn Văn Trỗi.

Tôi còn nhớ vào khoảng cuối năm 1964, lúc đó tôi đang học lớp 6 hay lớp 7, thì nghe tin Nguyễn Văn Trỗi bị xử bắn về tội đặt bom toan ám sát tổng trưởng quốc phòng Robert McNamara tại chân cầu Công Lý. Ngay trong những ngày tháng đó, và trong suốt thời gian nhiều năm về sau, guồng máy tuyên truyền của cộng sản đã hoạt động tối đa, để dùng cái chết của Nguyễn Văn Trỗi, khuấy động lòng căm thù và cuồng tín trong lòng người dân Miền Bắc. Những bài thơ, bài báo, những tác phẩm, ca ngợi Nguyễn Văn Trỗi xuất hiện ồ ạt trên đất nước Miền Bắc; những buổi truy điệu Nguyễn Văn Trỗi được tổ chức nhan nhản ở khắp các trường học, nông trường, hãng xưởng, hợp tác xã…; những cuộc thi bình giảng, viết luận văn, ca ngợi và học tập tinh thần Nguyễn Văn Trỗi lan tràn khắp các trường tiểu, trung và đại học ở Miền Bắc. Cả Miền Bắc trong những năm 1965, 1966… đi đến đâu cũng thấy những hình ảnh, thơ văn, sách báo,… nhắc đến Nguyễn Văn Trỗi. Rồi phim ảnh, ca kịch, tuồng, chèo… với nội dung ca ngợi Nguyễn Văn Trỗi cũng đua nhau xuất hiện. Những con đường Nguyễn Văn Trỗi, hợp tác xã Nguyễn Văn Trỗi, nhà máy Nguyễn Văn Trỗi, cánh đồng 5 tấn, 10 tấn Nguyễn Văn Trỗi cũng nhan nhản khắp mọi nơi. Ngay cả bưu điện Miền Bắc cũng bị CS buộc phải cho phát hành con tem có hình Nguyễn Văn Trỗi.

Thông thường tâm lý của con người đứng trước một hành động được gọi là “anh hùng”, người ta thường xúc động, khâm phục, ca ngợi và muốn noi theo hành động “anh hùng” đó, mà ít khi nghĩ đến hành động “anh hùng” đó đã diễn ra như thế nào, đã bắt nguồn từ đâu. Thực tế cho thấy, một hành động “anh hùng” có thể diễn ra một cách vô cùng tàn nhẫn, vô nhân; và có thể xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân tầm thường nếu không nói là bá đạo, như lòng căm giận, hận thù cá nhân, ảo tưởng yêu nước, ảo tưởng giải phóng, hay lòng cuồng tín về một thứ chủ nghĩa vô thần. Một hành động ngang ngược của một người lính Mỹ trên đường phố Sàigòn, một cái chết oan uổng của một người phụ nữ trong cảnh bom rơi đạn lạc, hay cái chết của một hài nhi giữa thành phố Hà Nội, khi bị máy bay Mỹ oanh tạc,… đều có thể là nguyên nhân, tạo nên những hành động, những con người “anh hùng” chạy theo ảo tưởng “chống Mỹ cứu nước” dưới bóng cờ cộng sản, mà quên mất, chính cộng sản mới là kẻ thù lớn nhất của dân tộc Việt. Tôi được biết, ở Miền Nam, có những người chạy vô bưng đi theo cộng sản, chỉ vì những lý do rất “Chí phèo”, như bị một hai vị trong hội đồng hương xã o ép; hay người yêu bỏ mình chạy theo một người có tiền tài địa vị trong chính phủ VNCH. Ở ngoài Miền Bắc cũng có những thanh nam, thanh nữ, ký tên tình nguyện đi bộ đội, đi thanh niên xung phong, chỉ vì xem một bộ phim tuyên truyền của cộng sản, hay chứng kiến một cuộc oanh tạc của máy bay Mỹ trên đường phố.

Khoảng năm 1966, tôi có tham dự một kỳ thi tại trường cấp 2 Bắc Lý. Trường này được mệnh danh là “lá cờ đầu giáo dục” tại Miền Bắc. Nghe đâu trường Bắc Lý có kết nghĩa với một trường học nào đó tại Cuba, nên tại đây có nuôi những con ếch Cuba, và đôi khi có phái đoàn chuyên gia Cuba viếng thăm. Tại văn phòng nhà trường có treo một tấm hình rất lớn của Che Guevara. Lúc đó, còn bé, nên chúng tôi không biết Che Guevara là ai, chỉ biết chung chung, ông ta là một “anh hùng” của cộng sản Cuba. Nhưng dưới bức hình của Che Guevara có một dòng chữ bỏ trong ngoặc kép, đại ý: “Che Guevara là con người hoàn thiện nhất trong thời đại chúng ta”. Bên cạnh câu nói đó có ghi tên người nói là Giăng Pôn Sạc (Jean Paul Sartre). Lâu ngày, tôi không còn nhớ chính xác, nhưng đại khái là như vậy. Thời đó, chúng tôi cũng không biết “Giăng Pôn Sạc” là ai, chỉ biết hiệu trưởng của trường Bắc Lý giới thiệu ông “là người từng được trao giải thưởng nobel văn chương vào năm 1964 với số tiền thưởng cả triệu Mỹ kim nhưng ông từ chối lãnh nhận tiền của tư bản”. Giai đoạn đó, tổng sản lượng kinh tế của cả Miền Bắc, chỉ có khoảng 2 tỷ Mỹ kim, nên tin một nhà văn “từ chối cả triệu Mỹ kim tiền thưởng của tư bản”, hẳn nhà văn đó phải rất đặc biệt. Vậy mà người đặc biệt đó lại ca ngợi “anh hùng cộng sản” Che Guevara là “Con người hoàn thiện nhất trong thời đại chúng ta”, thì rõ ràng, câu nói đó có một giá trị tuyên truyền, đầu độc thanh niên Miền Bắc rất ghê gớm.

Trước đó, một triết gia nổi tiếng thế giới, cũng từng đoạt giải Nobel văn chương năm 1950, là Bertrand Russell. Ông cũng đã công khai lên tiếng phản đối Mỹ, và ủng hộ cộng sản trong cuộc chiến tranh cộng sản xâm lăng Miền Nam, nên cộng sản Việt Nam đã tận dụng tối đa tiếng nói và uy tín của Bertrand Russell trong việc xây dựng hào quang chính nghĩa cho cuộc chiến tranh “xâm lăng Miền Nam”.

Đặc biệt, chuyến viếng thăm Hà Nội của nữ tài tử phản chiến Jane Fonda đã được guồng máy tuyên truyền của cộng sản Việt Nam tận dụng, nguỵ tạo Jane Fonda trở thành “tiếng nói của lương tâm thế giới” đối với cuộc chiến tranh Việt Nam. Hình ảnh Jane Fonda đội nón cối, đi dép râu, mặc áo bà ba, xuất hiện tại những ụ pháo phòng không ở Miền Bắc, được cộng sản Hà Nội phổ biến rùm beng, đã có một tác động tâm lý rất mạnh vào giới trẻ, và là nguyên nhân, tạo nên nhiều bi kịch cho cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam của cộng sản Hà Nội.

Vì vậy, có thể nói, trong suốt thời gian xâm lăng Miền Nam, tất cả những ai, vì bất cứ lý do gì, có những lời tuyên bố, hành động, hay thái độ, bất lợi cho Mỹ, bất lợi cho VNCH, đều được cộng sản Việt Nam tận dụng, thao túng, đánh bóng cho hào quang “giải phóng Miền Nam”, ngỏ hầu tạo ảnh hưởng đối với thế giới, đồng thời bòn rút mồ hôi, xương máu của người dân Miền Bắc. Đó là thảm kịch đau đớn nhất, bi phẫn nhất cho dân tộc Việt Nam, mà cộng sản Việt Nam là chánh phạm, cùng với rất nhiều đồng phạm, vì lý do này hay lý do khác, đã tiếp tay cho cộng sản.

KỲ 22

Trước khi được đặt chân lên những đường phố của Miền Nam Tự Do, tôi đã được thầy tôi và ông Tổng Tu (thông gia với thầy tôi) nói về cuộc sống tự do, sung túc của Miền Nam. Qua những tấm ảnh trên bưu thiếp, những tranh ảnh cũ từ thời Pháp thuộc, nhất là những tấm hình lưu giữ trong tiệm hình của ông anh tôi, tôi ít nhiều hiểu được cái thế giới Miền Nam, nơi các chị tôi đang sống, hạnh phúc gấp bội so với cuộc sống của người dân Miền Bắc. Tuy biết trên lý thuyết là như vậy, nhưng phải đợi đến khi được thực sự sống ở Miền Nam, tôi mới hiểu được cuộc sống tự do, hạnh phúc của người dân Miền Nam. Và khi hiểu được như vậy, tôi mới thấy nỗi đau đớn của những người dân Miền Bắc, sống trong tăm tối, ảo tưởng và lừa bịp của chế độ cộng sản, thê thảm như thế nào. Ngay trong những ngày tháng còn sống trong trung tâm chiêu hồi Thị Nghè, anh em hồi chánh chúng tôi vẫn nói với nhau, nếu người dân Miền Bắc ai cũng được vô thăm quan Sàigòn một vài ngày rồi về, thì chắc chắn, cuộc chiến xâm lăng Miền Nam của CS Hà Nội sẽ phải bị huỷ bỏ, vì chẳng còn ai tin vào đường lối tuyên truyền lừa bịp của chúng. Cũng vì đã trải qua tâm trạng đó, nên sau này, tôi đã tìm thấy sự đồng cảm sâu xa ở nhà văn Dương Thu Hương khi nghe bà nói, sau 1975, vô Sàigòn, nhìn thấy những đường phố, những tòa nhà và cuộc sống của người dân Miền Nam, bà đã khóc và đau xót nhận ra, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, kẻ chiến thắng là những kẻ mọi rợ.

Điều phi lý của cuộc chiến tranh Việt Nam là, trong khi Miền Bắc xâm lăng Miền Nam, theo đuổi một cuộc chiến phi nghĩa đầy bẩn thỉu, thì người dân Miền Bắc lại sống trong hào quang giả tạo, xuất phát từ ảo tưởng “chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam”. Trái lại, trong khi Miền Nam phải chiến đấu trong cuộc chiến tranh chống cộng sản xâm lăng, có đầy đủ hào quang chính nghĩa và lý tưởng cao quý, thì có nhiều người sinh ra và lớn lên ở Miền Nam, lại không nhận ra được điều cao đẹp đó, tìm đường vô bưng, đi theo cộng sản. Đó là do lỗi của ai? Lỗi của gia đình, nhà trường, chính phủ, hay do hoàn cảnh ân oán, phe nhóm của mỗi cá nhân? Nhưng dù cho đó có là lỗi của ai, bây giờ nhìn lại, đều thấy chua xót, vì trong cuộc chiến, Miền Nam đã có chính nghĩa nhưng đã không làm sáng tỏ chính nghĩa đó, hoặc có làm, nhưng chưa đến nơi đến chốn.

Bây giờ, nhìn trở lại cuộc chiến tranh Việt Nam, nhiều khi tôi vẫn nghĩ, nếu ở Miền Nam có những văn nghệ sĩ phản chiến, ít nhiều có tội, làm thiệt hại đến cuộc chiến tranh chống cộng sản xâm lăng; thì ở Miền Bắc, những người có tội lỗi nhất đối với dân tộc, đất nước, chính là những văn sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, nhà báo, nhà giáo… đã đóng vai trò của những văn nô, ký nô cho chế độ. Một người cộng sản, dù có xảo quyệt đến đâu, khi phun nọc độc tuyên truyền, người nghe bao giờ cũng cảnh giác, thận trọng. Nhưng một người trí thức, một thi sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ,… khi dùng cái tài năng thiên phú của họ, phụng sự cho qủy, thì sự khốc hại bao giờ cũng thê thảm hơn rất nhiều. Trong suốt 20 năm sống ở Miền Bắc, và sau này suốt mấy chục năm, theo dõi thơ văn của Việt Nam dưới chế độ cộng sản, tôi phải đau xót thú nhận, hầu hết những người cầm viết được coi là “thần tượng” của người Việt trên đất Bắc, đều là những người đã tôn thờ qủy, phục vụ cho qủy, để đánh đổi ơn mưa móc của chế độ cộng sản, mà nhiều khi ơn mưa móc đó chỉ là vài lạng thịt, ít cần đường phèn, hay một chiếc vỏ xe đẹp…. Và khi một nhà văn, nhà thơ đã được coi là “thần tượng” mà lại đi tôn thờ qủy, đánh đổi những vật chất tầm thường, thì sự tai hại thiệt là vô cùng cho chính họ, cũng như cho những ai tôn thờ họ.

Tôi xin đơn cử một thí dụ, nhà thơ Chế Lan Viên. Tài thơ văn của nhà thơ Chế Lan Viên có thể nói tuyệt vời. Tập thơ Điêu Tàn làm lúc ông mới mười mấy tuổi đã cho thấy tài năng thiên phú của ông. Đáng tiếc và đáng giận, khi ông dùng tài năng của ông viết những vần thơ ca ngợi chế độ cộng sản, khiến không biết nhiêu thanh thiếu niên, lao đầu vào chỗ chết, hiến thân xác cho đảng cộng sản, chỉ vì đọc những vần thơ của ông.

Để ca ngợi cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam của cộng sản Hà Nội, Chế Lan Viên viết những câu thơ xao xuyến lòng người:

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
– Chưa đâu! Và cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…

Hay khi kêu gọi tinh thần hy sinh, sẵn sàng dâng hiến tất cả cho “lý tưởng giải phóng Miền Nam” của đảng cộng sản, Chế Lan Viên đã viết những vần thơ có giá trị liên tưởng, đầy khích lệ:

Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thủy triều vẫy gọi những vầng trăng,
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt,
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm,
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt,
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng…

Đọc những câu thơ trên, quý vị sẽ thấy, thi sĩ Chế Lan Viên đã đội vương miện, tắm hào quang cho cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam của cộng sản. Dĩ nhiên, khi viết những câu thơ đó, Chế Lan Viên đã biết rõ sự thực của cuộc chiến tranh VN. Sau này, khi bước vào lúc tuổi xế chiều, Chế Lan Viên đã tỏ ra ân hận rất nhiều, khi ông thú nhận trong bài thơ “Ai? Tôi!”, trong đó có những câu:

Mậu Thân 2,000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2,000 người đó? Tôi!
Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi cuộc xung phong.
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ.
Rất tiếc sự ân hận của ông cũng chỉ có thế.

Bên cạnh những thi nô như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Huy Cận, Thế Lữ, Phạm Tiến Duật… ở Miền Bắc còn có những cuốn truyện đầu độc người đọc. Trong số những tác phẩm văn chương ảnh hưởng độc hại đến trí tuệ, lửa nhiệt tình và quan niệm sống của thanh thiếu niên Miền Bắc, có 2 tác phẩm quan trọng hơn cả là cuốn Ruồi Trâu và cuốn Thép Đã Tôi Thế Đấy.

* * *

Trở lại chuyện tôi ở phủ đặc ủy tình báo trung ương một thời gian rồi được chuyển về Trung tâm chiêu hồi Thị Nghè học tập đường lối, chính sách của chính phủ VNCH. Thời đó, chính sách của VNCH coi tất cả hồi chánh viên cũng bình đẳng như tất cả những công dân khác của VNCH. Nghĩa là một người khi đã về hồi chánh, người đó sẽ được hưởng tất cả mọi quyền lợi, cũng như bổn phận như công dân VNCH, trong đó có bổn phận đi lính, cầm súng bảo vệ tổ quốc trước làn sóng xâm lăng của cộng sản Bắc Việt.

Trong thời gian ở tại Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè, tôi có quen với một anh bạn cũng là hồi chánh viên, trước quê ở Hải Phòng, tên là Tuấn. Tuấn hơn tôi 2 tuổi, nhưng vì to con, râu quai nón rậm rạp, nên trông bề ngoài, anh già hơn tôi cả chục tuổi. Vì giường của tôi và giường của anh ở cạnh nhau, nên chúng tôi thường tâm sự về đủ thứ chuyện trên đời. Qua chuyện trò tôi được biết bố mẹ của Tuấn đều mất trong thời cải cách ruộng đất. Vì vậy, Tuấn rất căm thù cộng sản. Cũng giống như tôi, ngay khi đặt chân lên mảnh đất Miền Nam, Tuấn đã ra chiêu hồi ngay. Tuấn lại có công giúp quân đội VNCH tìm được mấy hầm vũ khí của VC, nên anh được thưởng một số tiền khá lớn đến mấy trăm ngàn tiền VNCH lúc đó.

Với người khác, khi có được số tiền nhiều như vậy thì lo ăn chơi, mua sắm. Nhưng Tuấn thì không. Anh ta nhờ ông Tài, nhân viên làm việc tại Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè, gửi hết số tiền thưởng vô ngân hàng, rồi anh tình nguyện đi lính đánh cộng sản. Sau này, tôi được biết, anh bị thương, trở về làm cho tổ chức thiện nguyện là hội Hoàn Cầu Khải Tượng (World Vision), ở ngay Sàigòn. Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, anh có điều kiện di tản dễ dàng cùng với các trẻ em mồ côi, nên anh đã tha thiết rủ tôi đi cùng với anh. Tôi từ chối, vì lúc đó, tôi đinh ninh ba tôi còn sống, nên tôi nhất định phải ở lại, trở ra Miền Bắc, ghé thăm ba tôi lần cuối, trước khi vượt biên ra ngoại quốc. Cũng vì tấm lòng tha thiết muốn gặp lại người cha già, nên ngay ngày 3/5/1975, sau khi cộng sản vừa mới chiếm đóng Sàigòn, tôi đã dùng giấy tờ giả, trở lại Miền Bắc. Đến khi tới Hà Nội, hay tin cha tôi đã mất năm 1974, tôi chỉ biết âm thầm ghé thăm một cha, rồi vội vàng trở vô Miền Nam. Việc tôi ra Bắc, vô Nam trong thời gian cộng sản mới chiếm Miền Nam đã khiến chính chị ruột của tôi tại Võ Di Nguy Phú Nhuận, cũng nghi ngờ, cho tôi là một tên hồi chánh giả, làm cho tôi dở khóc, dở cười… Nhưng đó là chuyện rất dài, tôi sẽ kể hầu qúy vị khi có dịp….

KỲ 23

Được chuyển về Trung tâm chiêu hồi Thị Nghè, tôi thấy có rất nhiều chuyện vui mừng, hạnh phúc và nhiều điều lạ lùng. Giống như một anh Mán từ núi xuống đồng bằng, một thằng ngố từ rừng vô thành phố, tôi ngỡ ngàng trước cả một thế giới đầy mới lạ, một cuộc sống náo nức, nhộn nhịp vô cùng. Điều tôi thấy lạ lùng nhất là sự canh phòng hết sức chểnh mảng đối với tất cả mọi hồi chánh viên. Tôi không biết, trong số những hồi chánh viên tìm tự do (bộ đội Miền Bắc), cũng như những hồi chánh viên trở lại với chánh nghĩa quốc gia (bộ đội, du kích Miền Nam), có ai là hồi chánh giả khiến chính phủ VNCH phải đề phòng hay không, nhưng tôi thấy, ít nhất là bề ngoài, quân cán chính của chính phủ VNCH làm việc tại Trung tâm, không hề có bất cứ sự nghi ngờ gì đối với bất cứ hồi chánh viên nào.

Tại Trung Tâm thời đó cũng có hàng rào bao bọ chung quanh. Cổng ra vô luôn luôn có lính gác. Cả Trung Tâm có một trung đội lính thay phiên nhau bảo vệ an ninh, nhưng tất cả mọi hồi chánh viên đều được ra vô tự do, ai muốn đi đâu thì đi, và đi bao lâu rồi về cũng được. Thậm chí, có nhiều người vào dịp cuối tuần đi luôn mấy đêm rồi về cũng không thấy ai trong ban Giám Đốc Trung tâm chất vấn, hỏi han, hay thắc mắc gì. Đối với anh em hồi chánh viên Miền Nam, thường họ có thân nhân họ hàng tại Sàigòn, hay tỉnh lẻ, nên họ hay đi ra ngoài. Riêng chúng tôi, những hồi chánh viên Miền Bắc, thì lại rất ngại đi ra ngoài. Phần không biết đường xá, lại không quen phong tục, tập quán của Miền Nam, phần sợ cộng sản trả thù, nên chúng tôi chỉ tụ tập chơi bài, đọc sách hoặc xem TV trong một quán ăn nhỏ nằm cạnh thư viện của Trung tâm.

Trung tâm chiêu hồi Thị Nghè nằm ngay cạnh sông Sàigòn. Bên kia sông là sở thú, nên ngày ngày, trông sang sở thú, chúng tôi thấy không biết bao nhiêu trai thanh gái lịch đi lại tha thướt. Cuộc sống thật vô cùng êm đềm và hạnh phúc. Thấy như vậy, chúng tôi lại càng thương xót cho những người dân khốn khổ ở Miền Bắc, đã sống vật lộn từng ngày từng giờ, lại đói khát, thiếu thốn trăm bề, hạnh phúc gia đình chẳng có, lại phải luôn luôn giả dối đối từ người ngoài, đến người trong nhà, thậm chí giả dối với ngay cả bản thân.

Một trong những hình ảnh tạo cho chúng tôi nhiều xao xuyến, thao thức nhất khi mới đặt chân lên mảnh đất Miền Nam là hình ảnh tà áo dài trắng của nữ sinh Miền Nam. Sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, chúng tôi chỉ nghe, chỉ đọc và chỉ thấy những tà áo dài trong sách vở, tranh ảnh, thì làm sao hiểu được “tà áo dài đẹp nhờ nó có gió”. Còn ở ngoài đời thì cả năm, may mắn trong ngày tết, ngày lễ, chúng tôi mới có dịp trông thấy tà áo dài…. loại áo tứ thân của mấy bà già, cùng với chiếc ruột tượng quấn ngang thắt lưng. Những chiếc áo dài đó, không nói quý vị cũng đủ hiểu, là những chiếc áo vá chằng và đụp, đủ màu sắc khác nhau. Ngay cả cả những chiếc áo dài lành lặn, thì màu sắc héo úa, cùng tà áo nhăn nhúm, không một lần được giặt ủi, dù có “quấn quít” theo bước chân của những bà già, thì làm sao có thể tạo cho chúng tôi được những rung động chân thành, những thao thức trăn trở như những tà áo dài trắng….

Tôi không biết có lẩn thẩn hay đần độn gì không, nhưng kể từ khi đặt chân vô Miền Nam, nhìn thấy tà áo dài trắng của nữ sinh Miền Nam, tôi dám chắc một điều, suốt 20 năm ở Miền Bắc, tôi chưa bao giờ được nhìn thấy tà áo dài trắng.

Ngay bên hông Trung tâm chiêu hồi Thị Nghè lúc đó có một dẫy phố nho nhỏ. Cứ mỗi buổi sáng, chúng tôi đứng trong sân, chiêm ngưỡng những cô nữ sinh Miền Nam e thẹn trong tà áo dài trắng, cắp cặp đi học, người đi bộ, người đi xe đạp, có người đi Honda… là chúng tôi đủ thấy hạnh phúc tuyệt vời. Ngày đó, tôi nhớ mình đã ngoài 20 tuổi, đã hết ngây thơ, hết hồn nhiên của tuổi mộng mơ, vậy mà khi nhìn những cô nữ sinh mặc áo dài trắng đi học, tôi cứ ngây ngây ngô ngô nghĩ những cô nữ sinh đó không thể nào là “người trần gian”.

Tôi còn nhớ một kỷ niệm tuyệt vời về một tà áo dài trắng, trong những ngày tháng khi mới đặt chân lên vùng đất tự do. Khi tôi còn ở trong Phủ Đặc Ủy Tình Báo Trung Ương, có một cô làm việc trong đó vốn là người Hà Nam, Phủ Lý, nên cô quen biết với gia đình bà chị của tôi. Nhờ cô giúp đỡ, nên tôi đã nhanh chóng tìm gặp được tất cả 4 bà chị ở Miền Nam, trong đó có một bà ở Võ Di Nguy, Phú Nhuận, hai bà ở Vũng Tàu, một bà ở Biên Hòa. Mỗi tuần, vào chiều thứ sáu, hoặc chiều thứ bảy, tôi lại đi xe lam từ Thị Nghè về Võ Di Nguy qua ngả Bà Chiểu để thăm bà chị. Trong một chuyến xe lam về Võ Di Nguy thăm chị vào một buổi chiều thứ bảy, tôi được cái may mắn ngồi đối diện một cô nữ sinh mặc áo dài trắng… trên suốt chặng đường từ Thị Nghè đến Lăng Ông, Bà Chiểu. Trong chiếc xe lam chật chội, tối tăm vào buổi chiều hôm đó, nhờ tà áo dài trắng nên tôi thấy trong xe sáng hẳn lên. Tuy kỷ niệm chỉ đơn sơ và vỏn vẹn có bấy nhiêu thôi, nhưng chẳng hiểu sao suốt bao nhiêu năm trôi qua, trải qua bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy sinh tử của một đời người, cho đến nay tôi vẫn nhớ đến hình ảnh tà áo dài trắng vào buổi chiều hôm đó trong những rung động thanh cao, tinh khiết…

Thế mới biết, trong cuộc sống thường nhật của mỗi chúng ta, nhiều khi chỉ một nụ cười, một ánh mắt, một tà áo dài, một mái tóc, một bờ vai gầy hay có khi chỉ là một nhân dáng khi đứng, khi đi, khi ngồi,… cũng để lại cho lòng mình một niềm hạnh phúc mãi mãi ngân nga, để rồi kỷ niệm đó mãi mãi tươi trẻ xuyên suốt cùng năm tháng, bất kể thời gian, bất chấp không gian và sự chìm nổi, sướng khổ của mỗi đời người…

Nhưng kỷ niệm về tà áo trắng trên mảnh đất Miền Nam đối với tôi chẳng phải chỉ có bấy nhiêu. Sau này, được đọc những vần thơ trong bài thơ Áo Lụa Hà Đông của Nguyên Sa; Ngày Xưa Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư; rồi được nghe những bài hát của Trịnh Công Sơn, của Phạm Duy,… tôi mới thấy chính cuộc sống tự do, giầu tình cảm, đậm đà văn hiến của người dân Miền Nam đã giúp cho ngôn ngữ Việt Nam, giá trị thẩm Mỹ của người Việt Nam, cùng tâm hồn của người Việt Nam vươn tới những chân trời mới, khiến cuộc sống của mỗi người trở nên hạnh phúc hơn, thi vị hơn, đáng sống hơn.

Tiếc rằng, nếu cái tâm hồn đậm đà thi vị, bát ngát tình người của người Hà Nội cách đây nửa thế kỷ đã bị mai một cùng với bước chân “tiếp quản thủ đô” của người bộ đội vào năm 1954, thì từ năm 1975 cho đến nay, tại Miền Nam, cái đằm thắm tình người ấy, cái đậm đà văn hiến ấy của người dân Miền Nam cũng đã bị tàn phá cùng với xích sắt xe tăng của người bộ đội Miền Bắc khi CS chiếm được Miền Nam.

Cũng giống như không biết bao nhiêu thi sĩ tài hoa trên đất Bắc, sau khi cộng sản cưỡng chiếm được một nửa nước vào năm 1954, bỗng một sớm một chiều thấy cạn dòng cảm hứng, thấy mình hết thành tiên, thành thánh; sau 1975, không biết bao nhiêu thi sĩ, văn nhân tài hoa của Miền Nam, cũng dần dần chìm sâu vào cuộc sống tem phiếu, vật chất, bon chen, kèn cựa lừa lọc giữa dòng đời, để rồi một ngày nào đó, bỗng nhiên nhận ra, những vần thơ, bản nhạc tuyệt vời do mình sáng tác ngày nào, bây giờ chỉ còn là những phút giây xuất thần mãi mãi chìm trong quá khứ. Sự thực, cùng với sự chiếm đóng của cộng sản, rất ít những bài thơ hay, những bản nhạc hay được sáng tác tại Miền Bắc sau năm 1954, cũng như tại miền Nam sau 1975. Đó là sự thực đau lòng cho dân tộc Việt Nam…

Vào một buổi chiều, đang thơ thản chơi ở sân Trung tâm Chiêu hồi Thị Nghè, thì anh Lộc, một người gốc Hà Nội, đã về chiêu hồi trước tôi mấy năm, đang làm thuyết trình viên cho Bộ Chiêu Hồi, ghé chơi và giới thiệu tôi với ông Đại uý Hiệu, người phụ trách một số chương trình phát thanh tình báo, địch vận của VNCH trong đó có đài Gươm Thiêng ở bên Cư Xá Thành Tín, ngay góc đường Hồng Thập Tự và Nguyễn Bỉnh Khiêm thì phải. Vì đã lâu, nên tôi không còn nhớ chính xác. Nếu có sai sót, mong quý vị bỏ qua.

Trong dịp trò chuyện với Đại uý Hiệu, ông yêu cầu tôi viết bài rồi chính tôi đọc bài mình viết trên đài phát thanh. Tôi vui vẻ nhận lời, vì trong thâm tâm, tôi muốn nói cho tất cả bạn bè, thân nhân của tôi ở Miền Bắc biết về bộ mặt thật của cộng sản, biết về sự thật đời sống sung túc, tự do hạnh phúc của người dân Miền Nam, biết họ đã bị cộng sản lừa bịp một cách trắng trợn. Thấy tôi vui vẻ nhận lời, ông Hiệu rất mừng. Ông cũng cho tôi biết, tốt nhất, khi viết bài, tôi nên dùng tên thật. Ông hỏi tôi có ngại ngùng gì khi dùng tên thật của mình lúc viết bài, cũng như khi đọc bài trên đài phát thanh hay không. Tôi trả lời, tôi sẵn lòng dùng tên thật, Nguyễn Hữu Chí, có vậy, bạn bè, thân nhân mới biết tôi là ai và như vậy, họ mới tin vào những điều tôi nói….

KỲ 24

Sau khi nhận lời Đại uý Hiệu, suốt thời gian kế tiếp nhiều năm trời, tôi đã liên tục viết bài và trực tiếp đọc những bài viết đó trong những chương trình phát thanh hướng về Miền Bắc. Tôi nói rõ họ và tên thật của tôi, quê quán của tôi, những kỷ niệm kinh hoàng tôi đã trải qua trên đường xâm lăng Miền Nam, những sự thực tôi đã chứng kiến, những luận điệu tuyên truyền của cộng sản đã bịp bợm như thế nào. Tôi cũng mô tả tất cả những niềm xúc động của tôi khi được chứng kiến cuộc sống tự do, sung túc của người dân Miền Nam….

Tôi không biết những bài viết của tôi kết quả như thế nào, nhưng tôi biết chắc một điều, những chương trình phát thanh đó đã đến tai nhiều người trên đất Bắc. Có hai bằng chứng rõ ràng để tôi nói như vậy. Bằng chứng thứ nhất là vào tháng 5 năm 1975, khi trở lại Miền Bắc, tôi đã nghe bạn bè kể về những chương trình phát thanh có bài viết của tôi. Bằng chứng thứ hai, sau 30-4-1975, trong một lớp học “cải tạo” tại Vũng Tàu, chính cán bộ cộng sản đã đích danh mang tên của tôi, Nguyễn Hữu Chí, cùng quê quán của tôi, ra nguyền rủa. Trong số những người phải ngồi học tập “cải tạo” hôm đó, có người cháu ruột gọi tôi bằng cậu, trước ở Vũng Tàu, và hiện đang sống ở Úc. Lúc đó, tôi đã bị cộng sản bắt vô tù, đến khi tôi vượt ngục được thì cả gia đình người chị cùng với người cháu đã vượt biên thành công và định cư ở Úc. Câu chuyện này mãi đến khi tôi vượt biên sang Úc, gặp lại người cháu, mới được nghe kể.

Trong những ngày tháng ở Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè, qua một số người bạn, tôi được biết, bên Bộ Chiêu Hồi cần tuyển dụng những người về chiêu hồi làm thuyết trình viên. Mục đích là để chính những người chiêu hồi từng là bộ đội Miền Bắc, hoặc là những người vô bưng theo “Mặt Trận Giải Phóng”, kể lại những sự thực mắt thấy tai nghe bên phía cộng sản. Qua đó, quân dân cán chính của Miền Nam hiểu rõ kẻ thù cộng sản như thế nào, và biết rõ cuộc chiến đấu của người dân Miền Nam nhằm chống cộng sản xâm lăng, có hào quang chính nghĩa ra sao.

Biết được tin này, lập tức tôi nộp đơn xin làm thuyết trình viên. Vì ông anh rể tôi lúc đó làm cảnh sát, phòng căn cước, từng thường xuyên ra vô Trung Tâm Chiêu Hồi chở tôi về nhà ở Võ Di Nguy Phú Nhuận, nên ông thường khuyên tôi cố gắng thi vô thuyết trình viên. Theo yêu cầu của ban tuyển dụng thuyết trình viên lúc bấy giờ, mỗi ứng viên phải thuyết trình một đề tài, trước một ban giám khảo. Tôi nhớ ngày ấy tôi chọn đề tài “Nhân Văn Giai Phẩm trên đất Bắc”. Trong số những vị giám khảo ngồi nghe tôi thuyết trình hôm đó có ông Võ Đại Tôn, một người đàn ông tôi thấy có phong độ hào hoa như một tài tử xi nê. Thời điểm đó, tôi không ngờ, trong cuộc đời trôi dạt của tôi suốt mấy chục năm về sau, lại có nhiều duyên hạnh ngộ với ông Võ Đại Tôn. Và tôi có thể nói, kể từ khi đặt chân lên Miền Nam tự do, trong số những người để lại trong tôi nhiều kỷ niệm, nhiều ảnh hưởng, trên nhiều phương diện, ông Võ Đại Tôn là người đầu tiên tôi được tiếp xúc, được học hỏi, và cho đến nay, ông vẫn có những ảnh hưởng to lớn và âm thầm đối với đời sống tinh thần và lý tưởng của tôi.

Hôm đó, tôi nhớ là tôi trình bầy trong khoảng nửa tiếng đồng hồ, và sau đó, tôi được chấm đậu. Tôi đinh ninh với nghề thuyết trình viên, tôi sẽ được đi đây đó trên 4 vùng chiến thuật. Nhưng không ngờ, trong buổi lễ mãn khóa chiêu hồi, tôi được yêu cầu đọc một bài cảm tưởng trước mặt quan khách, trong đó có ông Trần Trường Khanh, Trưởng phòng Thông tin Quốc nội thuộc Nha Công Tác. Khi nghe tôi đọc, thấy tôi có giọng Bắc đặc, nên ông Trần Trường Khanh xin cho tôi chuyển sang Phòng Thông Tin Quốc Nội để làm xướng ngôn viên.

Tuy thích làm nghề thuyết trình, những phần tôi rất kính trọng ông Trần Trường Khanh, phần thấy điều kiện làm xướng ngôn viên quá thoải mái, nên tôi ưng thuận. Ông Khanh cho tôi biết, mỗi tuần tôi chỉ cần đến Đài Phát Thanh Sàigòn 2 lần và Đài Quân Đội 2 lần để thu âm, một lần 4 chương trình và một lần 3 chương trình. Mỗi chương trình khoảng 1 tiếng, nhưng phần việc của xướng ngôn viên chỉ khoảng 10 đến 15 phút. Còn lại là ca nhạc, kịch, truyện truyền thanh… Ngoài ra, tôi cũng phải đến Đài Truyền Hình VN một, hay hai lần (tôi không nhớ rõ) để thu chương trình cho Bộ Chiêu Hồi. Sau này, Nha Công Tác chuyển về 172 Hiền Vương, mỗi tháng, vào Thứ Hai đầu tháng, tôi phải ghé lại để chào cờ.

Thời gian đó, tôi còn quá trẻ nên sống rất ngây ngô, không có một định hướng gì rõ ràng cho cuộc đời. Mặc dù giờ làm việc có không đầy 10 tiếng đồng hồ trong suốt một tuần lễ, nhưng phần lớn thời gian còn lại của tôi đều dành để “ngốn” sách. Hầu hết tại các thư viện của Bộ Thông Tin ở đường Phan Đình Phùng, Thư viện của các đài phát thanh, Thư viện Quốc gia, rồi nhà sách Khai Trí, các tiệm sách cho thuê… tôi đều tìm cách làm quen để được mượn sách hay coi cọp.

Cũng vì sống ngây ngô và đam mê đọc sách như vậy, rồi một phần cũng do làm xướng ngôn viên quá thoải mái, không có đòi hỏi gì nhiều, lại không có điều kiện tiếp xúc, gặp gỡ với nhân viên của Bộ, nên tuy làm việc ở Bộ Chiêu Hồi, tôi hiểu biết rất ít về cơ cấu tổ chức và các hoạt động của Bộ. Vì vậy, khi viết đến Bộ Chiêu Hồi, nơi tôi làm việc gần 3 năm trời tính đến ngày 30-4-1975, tôi đã email cho ông Võ Đại Tôn, để nhờ ông giúp đỡ. Sau đây là những ý kiến đóng góp quý báu của ông Võ Đại Tôn, tôi xin được đăng nguyên văn để quý độc giả thấy rõ sự sáng suốt và lòng nhân đạo của chính phủ VNCH, cùng sự thành công đặc biệt của Bộ Chiêu Hồi, trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành quyết định thành lập Chương Trình Chiêu Hồi vào ngày 17 tháng 4 năm 1963, theo đề nghị của Cơ Quan Nghiên Cứu Việt Mỹ và Viện Trợ Mỹ (USOM). Ý kiến tiên khởi do Sir Robert Thompson, chuyên viên Tâm Lý Chiến của cơ quan Anh quốc viện trợ cho VNCH đề xướng. Chương trình được phát triển mạnh, đạt kết quả tốt, và được nâng cấp thành một Bộ trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1968. Ngân sách dùng cho Bộ Chiêu Hồi do ngân sách Viện Trợ Mỹ đài thọ.

– Bộ Chiêu Hồi phối hợp hoạt động với Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, Bộ Quốc Phòng, các Quân Binh Chủng, Bộ Thông Tin, Cơ Quan Thông Tin Mỹ (JUSPAO), Cơ Quan Viện Trợ Mỹ (USOM), Cố Vấn Mỹ, Tổng Cục Chíến Tranh Chính Trị QLVNCH, Cục Trung Ương Tình Báo, Cục An Ninh Quân Đội, Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, Sở Công Tác thuộc Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu, Chiến Dịch Phượng Hoàng, các Đài Phát Thanh/Truyền Hình Quân Đội và Quốc Gia, Đài Gươm Thiêng Ái Quốc, Đài Mẹ Việt Nam, Báo Chí……

– Bản nhạc “Tung Cánh Chim Tìm Về Tổ Ấm…” được dùng làm nhạc hiệu cho các Chương Trình Chiêu Hồi.

– Nhiều loại Truyền Đơn đã được thực hiện để rải xuống các vùng VC, kể luôn cả loại Giấy Thông Hành, có in quốc kỳ VNCH và quốc kỳ Đồng Minh. Có cả loại Truyền Đơn kêu gọi giao nạp vũ khí có thưởng tiền mặt khi cán binh VC ra hồi chánh, mang theo vũ khí. Ngay cả quân đội Úc Đại Lợi tham chiến tại VN cũng có một mẫu truyền đơn riêng dùng trong các chiến dịch Tâm Lý Chiến để kêu gọi Hồi Chánh trong các cuộc hành quân (Xuân Đoàn Tụ)…

– Tính theo Tổng Chi Phí Chiến Tranh VN, thì tổng chi phí để kêu gọi một cán binh VC ra hồi chánh là: 14 Mỹ kim vào năm 1963, 250 Mỹ kim năm 1967, 350 Mỹ kim năm 1969 và 500 Mỹ kim năm 1970. Tính trung bình là chi phí 125 Mỹ kim cho chương trình kêu gọi một cán binh VC ra hồi chánh trong chiến tranh VN, so với hàng trăm ngàn Mỹ kim để tiêu diệt một cán binh VC trong các cuộc hành quân.

– Tính cho đến tháng Tư năm 1975, đã có gần 200,000 cán binh VC (kể cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và quân chính quy Bắc Việt) ra hồi chánh, trong số này có 15,000 là bộ đội miền Bắc. Tổng Nha Bưu Điện, phối hợp với Bộ Chiêu Hồi phát hành tem thư kỷ niệm 200,000 hồi chánh viên quay về với phía Quốc Gia, vào năm 1974.

– Trong tổng số hồi chánh viên này, đã có một số đông tham dự vào các cuộc hành quân với quân đội Đồng Minh và QLVNCH, có hơn 700 hồi chánh viên được tuyển mộ đặc biệt để thành lập những trung đội tác chiên phối hợp với quân đội Đồng Minh, gọi là các Toán Vũ Trang Tiền Đạo “Kit Carson”, chuyên về Tình Báo, chỉ điểm mục tiêu quân sự, đặc biệt là các mục tiêu tại miền Bắc và đường mòn Hồ Chí Minh, kết quả rất cao về mặt quân sự, tình báo.

– Ngoài Trung Tâm Chiêu Hồi Trung Ương tại Thị Nghè, Gia Định, còn có tổng côïng 47 trung tâm tỉnh. Bên cạnh các trung tâm Chiêu Hồi lớn như tại Đà Nẵng, Pleiku, Biên Hòa, Cần Thơ…. còn có các Làng Hồi Chánh tại các tỉnh lớn miền Nam và miền Trung.

BỘ CHIÊU HỒI: Bộ Chiêu Hồi đặt tại đường Lê Thánh Tôn, Saigon, trước mặt Bộ Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH. Nha Công Tác, Bộ Chiêu Hồi, có cơ sở riêng đặt bên cạnh Bộ Chiêu Hồi. Bộ Chiêu Hồi gồm có: 1) – Nha Quản Trị (hành chánh và ngân sách). 2) – Nha An Ninh Tình Báo. 3) – Nha Công Tác. 4) Các Trung Tâm Hồi Chánh Trung Ương và Tỉnh.

NHA CÔNG TÁC BỘ CHIÊU HỒI: Nha Công Tác, Bộ Chiêu Hồi, có thể coi là Nha lớn nhất thuộc Bộ Chiêu Hồi, gồm có các Sở- Phòng: – Sở Huấn Chính – Sở Tuyên Vận – Sở Huấn Nghệ – Các Biệt Đoàn Vũ Trang Tuyên Truyền – Các Đoàn Chuyên Viên Huấn Chính (Thuyết Trình Viên) – Các Chương Trình Phát Thanh và Truyền Hình Chiêu Hồi – Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương Chiêu Hồi – Quản Trị mọi công tác Chiêu Hồi trong các Ty và Chi Chiêu Hồi toàn quốc – Các Làng Hồi Chánh – Phối Hợp Tình Báo – Quân Sự – Huấn Luyện Vũ Trang / Hành Quân – với các Bộ/Cục QLVNCH và Đồng Minh, Cơ Quan Quân Sự Hoa Kỳ, Viện Trợ Mỹ và Phòng Thông Tin Hoa Kỳ (JUSPAO).

Các vị Giám Đốc Nha Công Tác Bộ Chiêu Hồi đều được biệt phái từ Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH qua đảm nhiệm chức vụ, đa số đều là Sĩ Quan Cấp Tá, thuộc ngành Tình Báo, Quân Báo. Vì lẽ, ngoài các công tác chuyên môn về mặt Tuyên Vận công khai (ấn loát các loại truyền đơn, báo chí như nguyệt san QUÊ MẸ), các chiến dịch tuyên vận, các chương trình văn nghệ, truyền hình, phát thanh (hàng tuần trên Đài Truyền Hình Quốc Gia và trên Đài Phát Thanh Saigon), các chương trình hội nhập Đời Sống Mới, tuyển dụng nghề nghiệp…, còn có các công tác Mật về quân sự và Tình Báo, xâm nhập các vùng mật khu Việt Cộng, phối hợp hành quân, địch vận.

Vào năm 1972, Trung Tá Võ Đại Tôn biệt phái từ Quân Đội sang Bộ Chiêu Hồi và được cử đảm nhiệm Giám Đốc Nha Công Tác, thay thế Đại Tá Phạm Đăng Tấn (Đại Tá Phạm Đăng Tấn hiện nay ở Virginia, đang bệnh nặng). Cuối năm 1972, Trung Tá Võ Đại Tôn, Giám Đốc Nha Công Tác, hướng dẫn phái đoàn Hồi Chánh Viên (10 người) sang công du Thái Lan trong 2 tuần lễ để thuyết trình về Thành Quả Chương Trình Chiêu Hồi do Chính Phủ Thái Lan mời.

Trong Nha Công Tác, Bộ Chiêu Hồi, một số đông các Hồi Chánh Viên cao cấp đã được tuyển dụng giữ những chực vụ quan trọng, trong đó có cựu Trung Tá Bộ Đội Bắc Việt là Lê Xuân Chuyên (bị CS tử hình vào ngàyu 30.4.1975), nhà văn Xuân Vũ (tác giả hồi ký Đường Đi Không Đến – Vượt Trường Sơn – đã qua đời tại Texas năm 2002), các ca sĩ Đoàn Chính, Bùi Thiện, và Bùi Công Tương làm Chánh Sở Tuyên Vận.

KỲ 25

Ngay khi được đặt chân lên Miền Nam Tự Do, cảm tưởng đầu tiên của tôi là Miền Nam nhất định sẽ thắng Miền Bắc. Nhìn vào sức mạnh quân sự của VNCH và những căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ để lại ở Đà Nẵng lúc đó, tôi tin tưởng mãnh liệt, cộng sản Bắc Việt sẽ thảm bại. Nhưng trong những năm tiếp theo, tôi dần dần cảm thấy chính sự tự do của Miền Nam khiến cho sức chiến đấu chống cộng sản xâm lăng, của Miền Nam bị suy giảm. Quyền tự do cá nhân của người dân Miền Nam quá lớn so với người dân Miền Bắc. Trong một xã hội dân chủ thời bình, đó là một đặc tính ưu việt. Nhưng trong chiến tranh, điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự đoàn kết của quân dân đằng sau vị nguyên thủ quốc gia. Đúng ra, nếu đem so sánh đời sống tinh thần, vật chất, tính nhân bản, cùng những giá trị văn hóa của người dân hai miền Nam Bắc, nhiều người đã có lý khi cho rằng, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, thà thua trận mà được làm người dân Miền Nam, còn sung sướng hạnh phúc hơn là thắng trận mà phải làm người dân Miền Bắc.

Quả thực, sống ở Miền Nam tôi nhận ra, một xã hội có văn hiến, mọi người sống có tình nghĩa, biết yêu thương đồng loại, trân trọng những giá trị tinh thần, một khi phải đối diện với một kẻ thù tàn nhẫn, xảo quyệt, bất lương, chỉ biết tôn thờ sức mạnh, và coi nòng súng là lẽ phải, làm sao xã hội có văn hiến đó có thể chiến thắng?

Trong suốt thời gian chiến tranh cũng như sau chiến tranh, phải vô các trại cải tạo, phải chứng kiến những tội ác man rợ của cộng sản, những sự tàn nhẫn bất lương, thủ đoạn lường gạt, đầy tráo trở của cán bộ, quản giáo, từ người già đến người trẻ, từ cấp cao đến cấp thấp trong chế độ cộng sản, nhiều người Miền Nam đã thẳng thắn thừa nhận: Người cộng sản đểu giả quá. Mình không thể nào thắng họ được. Thà chấp nhận thua họ, chứ đểu như họ để có thể thắng họ thì mình không làm được.

Trong chiến tranh Việt Nam, một trong những điều bạc ác, bất nhân, thất đức nhất của người cộng sản là chiến tranh du kích. Sự thực, chiến tranh du kích là đường lối chiến thuật được kẻ yếu áp dụng để đối phó với kẻ thù mạnh. Đặc tính của một cuộc chiến tranh du kích thuần túy là người du kích tấn công đối phương vào lúc bất ngờ để giành tối đa hiệu quả chiến đấu, giết được nhiều kẻ thù nhất, ít thiệt hại về nhân mạng và vũ khí, đạn dược nhất. Trong lịch sử chiến tranh thế giới cũng như Việt Nam, chiến tranh du kích được áp dụng tại nhiều nơi, nhiều lúc và không ai đặt câu hỏi về sự phi nhân của chiến tranh du kích. Tuy nhiên, đối với cộng sản Việt Nam, chiến tranh du kích không phải là đường lối chiến thuật thuần tuý mà là cả một hình thức vận động chiến tàn ác, với thủ đoạn, khai thác tối đa sự hiện diện của thường dân, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em và ông bà già, vào cuộc chiến để làm bia đỡ đạn. Bằng cách trà trộn với thường dân, tấn công đối phương, cộng sản Việt Nam đạt được ba mục tiêu. Thứ nhất, tiếp cận và tấn công đối phương nhanh chóng bất ngờ. Thứ hai, qua những thương vong không tránh khỏi cho thường dân, CS thổi bùng lòng hận thù trong lòng họ. Thứ ba, mỗi khi thường dân bị chết, cộng sản sẽ dùng xác thường dân để tuyên truyền, quy chụp tội ác chiến tranh cho đối phương. Thứ tư, gây ác mộng và khủng hoảng tâm lý triền miên cho đối phương.

Tham chiến tại Việt Nam, một người lính VNCH, hay người lính Mỹ, lính đồng minh nói chung, đều mang vô cuộc chiến tinh thần thượng võ, cùng những giá trị nhân bản và văn hóa mà họ đã thu thập được trong nhà trường, ngoài xã hội… Nhưng một khi trận chiến bùng nổ, trong cảnh súng đạn tơi bời, tính mạng bị nguy hiểm, đồng đội chiến hữu thân yêu nhất bên cạnh lần lượt bị hy sinh, trong khi kẻ thù lại ẩn nấp trong dân, không chịu lộ diện, thì sự bình tĩnh, tỉnh táo của người lính luôn luôn có giới hạn. Hậu quả, một khi có những thảm kịch như thảm kịch Mỹ Lai xảy ra, mọi người đều dí tay vào trán những người lính Mỹ, mà quên mất, chính những người cộng sản Việt Nam mới là chánh phạm cố tình cố ý sắp đặt để tạo nên những thảm kịch đó một cách có hệ thống và chủ trương.

TÔI MẤT TỰ DO!

Được sống dưới vùng trời tự do không đầy 4 năm, thì cả Miền Nam bước vào biến cố 30-4-1975. Thời gian đó, tôi đang sống trong một căn phòng nhỏ thuộc Bộ Thông Tin Chiêu Hồi ở 272 Hiền Vương. Trong những tuần lễ cuối cùng của tháng 4, ông Trần Trường Khanh có cho tôi một địa chỉ ở Cần Thơ và lời nhắn nhủ, hãy về đó cố thủ!

Trước những tin tức ngày càng bất lợi, hầu hết anh em thuộc thành phần chiêu hồi đều lo lắng. Ai cũng biết, một khi Sàigòn thất thủ, thành phần chiêu hồi sẽ bị cộng sản trả thù khủng khiếp nhất, nếu không bị xử bắn thì cũng bị tù chung thân. Vì vậy, những anh em có gia đình đều lần lượt tìm cách ra đi. Riêng tôi, trong suốt những năm tháng sống ở Miền Nam Tự Do, hình ảnh người cha già lưng còng, râu tóc bạc phơ, lúc nào cũng nhường cơm xẻ áo, thương yêu đùm bọc tôi trong muôn vàn nỗi cơ cực thiếu thốn, luôn luôn hiện về như một ám ảnh thường trực… Cùng với hình ảnh người cha già, tôi còn không biết bao nhiêu niềm ân hận, nỗi xót xa, về những tội lỗi của tôi khi tôi đối xử với cha tôi như một người “địa chủ tàn ác có tội với nông dân”. Chính trong niềm ân hận sâu xa đó, tôi muốn được trở về Miền Bắc, được gục vào lòng cha già để được khóc, được thổn thức nói: “Con Xin Lỗi Cha!”

Tôi cũng muốn về Hà Nội, để được gặp lại người mẹ muôn vàn đau khổ của tôi. Trong suốt thời gian 20 năm sống ở Miền Bắc, tôi chỉ ghé thăm mẹ tôi hơn chục lần vào dịp tết nhất hay nghỉ hè. Những lần gặp gỡ đó, tôi ít có khi nào chịu ngồi hàn huyên tâm sự với mẹ. Tôi có một tính xấu trong suốt cuộc đời là mê đọc sách. Bất cứ khi nào, hễ rảnh một chút là cầm quyển sách, tờ báo. Vì vậy, mỗi khi lên thăm mẹ, tôi bao giờ cũng mang theo một vài quyển sách, hay ra tiệm cho thuê sách, mướn sách về coi. Sách vở mang đến cho tôi kiến thức, niềm vui, nhưng sách vở cũng khiến cho cuộc đời tôi thêm cô độc. Buông quyển sách đang coi, trong vài chục phút, có khi vài tiếng đồng hồ sau, tâm trí của tôi vẫn còn luẩn quẩn bên cạnh cuộc đời của các nhân vật trong sách. Tôi biết mẹ tôi thương tôi lắm. Tôi cũng thương mẹ tôi vô cùng vì tôi biết, trong thâm tâm, mẹ tôi vẫn buồn buồn với mặc cảm lỗi lầm, đã đẻ tôi ra mà không chịu nuôi tôi… Nhưng qua câu chuyện của thầy tôi sau này, tôi hiểu, mẹ tôi không hề có lỗi gì. Không những thế, trong hoàn cảnh mới sanh ra tôi, mẹ tôi đã trải qua những nỗi đau khổ chất ngất của một người mẹ bị cướp mất con ngay tại bệnh viện Bạch Mai, và bị đuổi khỏi nhà sau đó…

Thời gian sau này, sau khi được gặp lại mẹ, tôi có ghé thăm mẹ, có cùng mẹ đi chùa, và về quê ngoại ở núi Đọi Đệp ngay cạnh sông Châu. Trong những lần đó, tôi vừa muốn nũng nịu để được mẹ nuông chiều, lại vừa ngại ngùng xa cách. Một người con trai 15, 16 tuổi, xa mẹ suốt cả thời gian 15, 16 năm, làm sao có thể ôm ấp mẹ một cách thân mật, đằm thắm trong tình mẫu tử như mẹ con của những người khác… Ngày xưa, khi sống gần mẹ lúc tôi chưa đầy 20, nên còn ngây thơ, ham vui và cư xử thiếu suy nghĩ. Nhưng trong những năm tháng được sống ở Miền Nam, qua sách vở, phim ảnh, và tình người, tâm hồn tôi được bồi đắp, tình cảm tôi được vui xới, nên dần dần tôi nhận ra những tình cảm thiêng liêng con người cần phải ấp ủ, trong đó có tình mẹ con, tình cha con. Tôi biết, trên chặng đường trở về Bắc, tôi sẽ đối diện với rất nhiều nguy hiểm. Nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả, để đánh đổi những giây phút hạnh phúc được gặp cha gặp mẹ.

Tại Trung Tâm Hiền Vương lúc đó có anh bạn cũng chiêu hồi, lái xe cho ông Bùi Công Tương, Chánh Sở Tuyên Vận. Chiều 28, hay 29 tháng 4 năm 1975, tôi không nhớ rõ, anh ghé phòng tôi, rủ tôi ra bến Bạch Đằng để tìm được đi. Tôi từ chối, nhưng không nói rõ lý do tôi sẽ về Bắc. Sau đó, anh về phòng của anh mang sang cho tôi một bọc tiền, không hiểu anh lấy từ đâu. Ngay chiều hôm đó, chúng tôi chia tay. Từ đó đến nay, tôi không nghe được tin tức gì về anh.

Hai hôm trước đó, chị Tuyên, cũng là xướng ngôn viên cho Bộ Chiêu Hồi, có ghé thăm tôi và dục tôi tìm đường đi, đừng dại dột ở lại để cộng sản bắt. Trước đó, ngày 25, anh Hải, người Hải Dương, làm cho hội từ thiện Hoàn Cầu Khải Tượng cũng đến nhà ông anh rể ở Võ Di Nguy Phú Nhuận rủ tôi đi, nhưng tôi từ chối. Với anh Hải, tôi nói thật ý định sẽ về Bắc của mình.

Vì sống với cộng sản 20 năm, quá đủ để tôi hiểu về con người cùng chế độ cộng sản. Vì vậy, ngay khi cộng sản chiếm đóng Sàigòn ngày 30-4-1975, thì ngày 3-5-1975, tôi lên đường trở lại Miền Bắc cùng với người bạn tên Bình. Để có thể qua mặt các trạm kiểm soát trên đường về Bắc, cả hai chúng tôi đều đóng vai bộ đội với đầy đủ quân phục, nón cối, dép râu và giấy tờ. Tất cả những thứ này do Bình mua lại từ một tay bộ đội thuộc loại “lao công đào binh” gốc Hải Phòng.

Sàigòn lúc đó, tuy vừa trải qua cơn ác mộng binh lửa do người cộng sản mang lại, nhưng cùng với viễn ảnh đất nước từ nay không còn chiến tranh, nên người dân Sàigòn vẫn còn rất thích giúp đỡ bộ đội. Thêm vào đó, trong những ngày đầu tiên mới đặt chân lên đường phố Sàigòn, những người bộ đội vẫn còn ngây ngô, ngốc nghếch trước những tòa cao ốc, những đường phố nhộn nhịp xe cộ, và đời sống sầm uất của Sàigòn. Vì vậy, trong bộ quần áo bộ đội, với kinh nghiệm và vốn sống của những người đã sống ở Sàigòn mấy năm, chúng tôi dễ dàng qua mắt tất cả những người bộ đội của đoàn quân viễn chinh cộng sản Miền Bắc.

Chặng đường đầu tiên của chúng tôi từ Sàigòn đi Nha Trang bằng xe đò thật êm ả. Từ lơ xe, đến tài xế, hành khách trên xe, đều có thái độ vừa vui vẻ lại vừa có chút ngại ngùng đối với dân nón cối dép râu. Trên đường đi, tuy có các trạm kiểm soát của bộ đội, nhưng chúng tôi đều qua mặt dễ dàng. Đến Nha Trang, chúng tôi ghé vô một tiệm ăn, tính ăn uống xong, sẽ kiếm khách sạn ngủ tạm một đêm, chờ hôm sau đáp xe đò đi tiếp chặng đường ra tới Quảng Trị. Đoạn đường gay go là từ Quảng Trị ra Đồng Hới lúc đó chưa có xe đò. Chúng tôi hy vọng, sẽ quá giang xe quân sự trên chặng đường này….

KỲ 25

Trong lúc chúng tôi đang ngồi ăn trong một tiệm ăn ở Nha Trang, bỗng dưng trước cửa tiệm, hai chiếc xe jeep của quân đội Mỹ thắng lại. Từ hai chiếc xe một toán bộ đội khoảng hơn chục người ào xuống, bước vô tiệm, khí thế rất hùng hổ. Hai người đi đầu tuổi ngoài 50, nhưng dáng dấp lanh lẹ, chủ động, tự tin. Cả hai đều chống gậy trúc bóng lưỡng, nhưng không hề đeo ba lô hay súng ống gì. Người đi bên trái, mặt vuông chữ điền, quai hàm bạnh, da mặt trắng xanh, râu quai nón tua tủa, ánh mắt thâm trầm. Người đi bên phải, cao hơn nửa cái đầu, mặt dài như mặt ngựa, da đen, tóc rễ tre. Những người còn lại đều ở lứa tuổi trên dưới 30, quần áo nai nịt gọn gàng, súng dài súng ngắn, dao găm, lựu đạn… trang bị đầy đủ. Vào thời điểm đó, bộ đội VC vẫn chưa hề có lon lá đầy đủ. Nhưng nhìn qua phong độ, xe cộ xử dụng, và cách ăn mặc, tôi đoán ngay, hai người đi đầu phải là cán bộ trưởng cấp trung đoàn trở lên. Còn toán đi theo rõ ràng là vệ sĩ, trinh sát, thám báo, liên lạc và loong toong sai vặt…

Toán bộ đội vô quán, ngồi kín hai bàn ăn cách bàn chúng tôi không xa. Lắng nghe họ trò chuyện, chúng tôi biết, người bộ đội da mặt trắng là chính ủy sư đoàn, còn người mặt đen là sư đoàn trưởng. Tất cả đang trên đường về thẳng Hà Nội để tham dự một phiên họp nào đó với trung ương. Vì chuyện xảy ra đã gần 30 năm nên tôi không còn nhớ rõ tên của hai người bộ đội cũng như số hiệu của sư đoàn. Tôi chỉ nhớ lúc đó, tôi, Bình và Dưỡng có bàn với nhau, nếu tìm cách làm quen rồi quá giang xe của họ ra thẳng Hà Nội thì rất tốt. Được họ cho quá giang, chúng tôi có mấy điều lợi. Thứ nhất, chúng tôi không phải đi bộ đoạn đường từ Quảng Trị ra Đồng Hới, Quảng Bình. Đoạn đường này vào lúc đó chưa có xe đò, vì VC mới chiếm được Miền Nam nên khu này vẫn còn hoang vu, tiêu điều vô cùng. Lợi thứ hai là không phải tốn tiền xe đò, xe lửa. Lợi thứ ba là chúng tôi có thể dễ dàng vượt qua được các trạm kiểm soát dọc đường. Tuy chúng tôi lúc đó ai cũng có giấy tờ đầy đủ, nhưng tất cả đều là giấy tờ giả. Mã đã giả thì luôn luôn có nguy cơ bị phát hiện bất cứ lúc nào. Sống trong chế độ cộng sản mấy chục năm, chúng tôi biết, ngay cả những người có đầy đủ giấy tờ thật trong người, họ vẫn có thể bất ngờ bị công an lôi cổ vô đồn ngồi cả tuần lễ là chuyện thường tình, huống chi chúng tôi chỉ có giấy tờ giả.

Sau khi bàn bạc, Bình đồng ý lôi ra mấy bao thuốc 3 số 5 rồi nhào sang làm quen thẳng với hai người bộ đội cấp trưởng. Đó là nước cờ táo bạo nhưng rất đúng, vì chỉ có hai người cấp trưởng mới có thẩm quyền cho chúng tôi quá giang hay không. Bình dân gốc Hà Nội, đẹp trai, tháo vát, tự tin, dễ hoà nhập với bất cứ ai trong bất cứ hoàn cảnh nào. Bình thường ba hoa đủ thứ thành tích mà Bình đã làm kể từ khi ra chiêu hồi. Nghe chuyện Bình kể, tôi không tin lắm, nhưng phải thừa nhận là Bình đã từng được đi sang Đài Loan tham dự một đại hội chống cộng do chính tổng thống thống chế Tưởng Giới Thạch tổ chức. Năm đó là năm 1973 hay 1974 thì phải. Đi về, Bình có cho tôi xem cả xấp hình, trong đó có những tấm Bình đứng giang hai tay giữa một khán đài cao vòi vọi, trên đầu và đằng sau là cả một bầu trời xanh bát ngát…

Ngồi bàn bên này nhìn sang, tôi thấy bộ điệu của Bình rất “ăn khách”, vì tuy không biết rõ Bình nói chuyện gì, nhưng chỉ nhìn bộ điệu say sưa hút thuốc 3 số 5 và say sưa há miệng ra nghe của hai người bộ đội cấp trưởng, tôi biết Bình có nhiều triển vọng thành công.

Khoảng 10 phút sau, Bình trở về bàn, nét mặt tươi rói, miệng cưới toét đến tận mang tai. Bình nói:

– “Thủ trưởng” đồng ý 100% cho chúng ta quá giang, với 3 điều kiện. Thứ nhất, suốt chặng đường từ đây ra Hà Nội, mình phải gọi họ là “thủ trưởng”. Thứ hai, phải cho họ coi giấy tờ “sự vụ lệnh” xem có hợp lệ hay không. Thứ ba… mỗi người phải “biếu thủ trưởng” một kí lô “mì chính” (bột ngọt).

Chúng tôi từng sống ở Miền Bắc, hiểu rõ giá trị của “mì chính” như thế nào, nên mỗi người đều nhét vô ba lô khoảng 5 kí lô để làm quà cho người thân. Nay chấp nhận chi một kí lô cho “thủ trưởng” để quá giang xe là điều tuy tiếc, nhưng có thể chấp nhận được. Chuyện gọi họ là “thủ trưởng” cũng là chuyện quá dễ dàng. Chỉ riêng khoản trình giấy tờ, tôi thấy hơi bất an. Bình thản nhiên chìa tay, vừa nói vừa nháy mắt:

– Rồi hai ông đưa giấy tờ đây để tôi trình “thủ trưởng”…

Chúng tôi lặng lẽ rút giấy tờ trao cho Bình. Thời buổi đó, giấy tờ không có hình ảnh gì, chỉ có vài dòng chữ đánh bằng máy chữ, rồi điền vô bằng bút mực, kèm theo con dấu. Vì thế, chúng tôi tin là không có gì trục trặc, sẽ qua mắt được hai “thủ trưởng” dễ dàng. Sau khi cầm hai tờ giấy “sự vụ lệnh”, Bình nói tiếp:

– Bây giờ điều kiện 3, mỗi người một ký “mì chính”…

Tôi thở dài, cúi xuống ba lô lôi ra hai gói bột ngọt, mỗi gói 500gr (lâu ngày tôi nhớ không rõ là gói một kí, hay gói 500gr, 450gr). Trước khi trao gói bột ngọt cho Bình, tôi hỏi:

– “Thủ trưởng” có 3 điều kiện, mình chấp nhận hết. Nhưng mày không nghĩ là cả họ cả mình, 15, 16 người mà chui vô hai chiếc xe jeep đi từ đây ra tận Hà Nội thì chịu sao nổi?

Bình gật đầu tỏ vẻ thích thú:

– Cái đó mày khỏi lo. Hai chiếc xe jeep này là xe hai “thủ trưởng” xé lẻ đi ăn quán. Phái đoàn người ta đi hơn 100 mạng, trên hai chiếc xe buýt dài thoòng loại xe chở nhân viên của sở Mỹ. Nếu mình đồng ý, “thủ trưởng” sẽ nhét mình lên hai chiếc xe đó…

Nghe vậy, tôi an tâm. Bình cầm mấy gói bột ngọt và giấy tờ, bước sang bàn hai “thủ trưởng” ngồi. Trong nháy mắt, hai “thủ trưởng” nhận mấy gói bột ngọt, rồi liếc mắt ngó qua ba tờ “sự vụ lệnh” của chúng tôi rồi trả lại ngay.

Không đầy 15 phút sau, chúng tôi đứng dậy, bước ra khỏi quán, và bám vào một trong hai chiếc xe jeep chạy khỏi thị xã Nha Trang. Xe chạy khoảng 10 phút thì dừng lại đằng sau hai chiếc buýt dài thườn thượt. Gã “thủ trưởng” chính ủy bảo chúng tôi đứng cạnh chiếc xe jeep chờ, rồi đi tới gặp một người bộ đội lớn tuổi đang ngồi ở bậc lên xuống của chiếc xe buýt. Gã này có gương mặt lầm lì và cặp lông mày sâu róm đen sì. Khi viên chính ủy nói chuyện với gã, chúng tôi ngạc nhiên khi thấy gã có thái độ lạnh lùng, bất cần đời. Nhìn thoáng qua, tôi biết gã chỉ là một anh chàng trung sĩ, hạ sĩ. Nhưng cái thái độ coi thường thượng cấp của gã, cho chúng tôi biết, có lẽ gã là người thiểu số.

Viên chính uỷ nói gì đó một hồi xong thì bước đi. Gã sâu róm uể oải đi lại chỗ chúng tôi đứng rồi hỏi trổng:

– Có hành lý gì không?

Tôi lắc đầu. Dưỡng chỉ chiếc ba lô ra hiệu chỉ có vậy. Bình thì đon đả mồm mép:

– Chào “thủ trưởng”. Đàn em chỉ có mỗi cái ba lô này thôi, nhưng bên trong “chất lượng” đáo để lắm. À mà “thủ trưởng” tên gọi là gì nhỉ….

Gã sâu róm nhìn Bình trừng trừng vẻ không thân thiện ra mặt, khiến Bình cụt hứng, đang ba hoa, liền tịt ngòi, hết nói. Gã sâu róm gầm gừ:

– Ai “thủ trưởng” với mày?!

Trước cặp mắt như thiêu như đốt của gã, cộng với lối ăn nói cục cằn, thô lỗ toàn “mày tao”, Bình đứng im, không biết nói làm sao. Sau khoảng mấy chục giây im lìm, gã sâu róm quay lưng bước đi kèm theo một tiếng cộc lốc:

– Theo tao…

Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau tìm một quyết định. Trong ba đứa cùng đi về Bắc ngày ấy, chỉ có Dưỡng là to con, gốc du đãng Hải Phòng. Dưỡng tình nguyện đi bộ đội, nhưng ngay khi VC chiếm được Đà Nẵng, Dưỡng đã đào ngũ, gây đủ thứ chuyện động trời, kể cả cướp tiệm vàng. Mãi sau này, khi vô trại cải tạo Kàtum, gặp lại Dưỡng bên khu hình sự, y mới kể cho tôi nghe về cuộc đời của y, tôi mới biết cuộc đời của Dưỡng rất đáng thương, nhưng cũng rất tội lỗi, gây nên không biết bao nhiêu chuyện thương tâm cho người khác. Vì Bình có bà chị trước bán ở cửa hàng bách hóa tổng hợp tại Hải Phòng nên qua trò chuyện, mua bán giấy tờ từ Dưỡng, Bình mới rủ Dưỡng cùng trốn về Hà Nội trong thời gian tranh tối tranh sáng để đi buôn thuốc phiện. Chuyện này, mãi về sau tôi nghe chính bạn gái của Bình nói, tôi mới biết. Biết ra thì Bình đã cao chạy xa bay ở tận Lai Châu, Điện Biên gì đó. Từ đó cho đến nay, đã gần 30 năm, tôi không hề gặp lại Bình lần nào và cũng không nghe được bất cứ tin tức gì của Bình.

Trở lại chuyện, khi ấy nghe gã sâu róm nói năng cộc lốc, chúng tôi nhìn nhau một thoáng lưỡng lự, rồi Dưỡng nhún vai, không nói không rằng, bước theo. Tiếp đến là Bình. Cuối cùng là tôi. Gã sâu róm bước lên xe buýt, chúng tôi bước theo. Ngoài trời lúc đó đã nóng, trong xe còn nóng hơn. Vậy mà tôi thấy trên xe có tới hơn hai chục người bộ đội đang ngủ gục, ngủ ngồi, ngủ nằm, đủ kiểu. Gã sâu róm đi dần xuống tận cuối xe, rồi chỉ vô khu ghế còn trống khoảng hơn chục chỗ, gã nói cộc lốc:

– Chúng mày ngồi đó.

Nói xong, không thèm nghe chúng tôi trả lời, gã quay người đi về phía đầu xe. Chúng tôi nhanh chóng nhét ba lô vô giá để đồ thật cẩn thận rồi vội vàng nhào ra ngoài, vì trong xe lúc đó quá nóng.

Khoảng tiếng đồng hồ sau, gã sâu róm thổi còi, mọi người vội vã lên xe. 5 phút sau, xe chuyển bánh, chạy đằng sau 2 chiếc xe jeep, và một chiếc xe buýt khác chạy đằng sau xe chúng tôi. Cả đoàn xe chạy thẳng quốc lộ 1, tiến về Miền Bắc….

(còn tiếp)

Nguồn: http://baovecovang.wordpress.com

oOo

Facebook Nguyễn Phan

Boycott all products made in China or made in P.R.C (People Republic of China)690 – 695 Article Numbering Centre of China – ANCC cn

http://www.beaconoftruth.com/melamine.htm

Bạn muốn lướt mạng mà không để lại vết tích như địa chỉ IP, đồng thời cũng là cách vượt tường lửa cho những ai lướt mạng tại các quán internet cafe v.v.. hãy bấm vào http://anonymouse.org, sau đó chọn lá cờ Anh hay Đức, gõ địa chỉ trang nào bạn muốn tìm vào khung và bấm enter. Phiên bản này miễn phí vì vậy có hiện quảng cáo.

 

This entry was posted in e-books, vietnamese. Bookmark the permalink.

Leave a comment